“Rất tiếc cao hiền không tái ngộ
Trên đường từ biệt lệ tuôn đầy…
Một lời như sấm mùa xuân dậy
Thúc giục rồng nằm cất cánh bay”.
Trong “Tam quốc diễn nghĩa”, Từ Thứ ban đầu là quân sư của Lưu Bị, lập nhiều chiến công, tỏ rõ tài trí và mưu lược hơn người. Tào Tháo vì muốn triệt tiêu thế lực của Lưu Bị nên đã bắt mẹ của Từ Thứ, bắt chước nét chữ của Từ mẫu để dụ Từ Thứ về hàng. Từ Thứ giã biệt Lưu Bị, phải gửi thân nơi đất Tào, thề cả đời không hiến một kế nào cho Tào Tháo.
Từ Thứ trước khi ra đi đã tiến cử Gia Cát Lượng. Lưu Bị ba lần đến lều tranh mời Gia Cát Lượng xuống núi, kể từ đó Khổng Minh trở thành quân sư của Lưu Bị, phò tá Lưu Bị dựng nên cơ đồ Thục Hán.
Bao người tiếc thương cho Từ Thứ, tài cao chí lớn gặp được minh chúa, cuối cùng vì hiếu thảo với mẹ già mà mắc mưu gian, uổng phí một đời. Trong quãng thời gian ngắn ngủi phò tá Lưu Bị, Từ Thứ đã bày kế phá tan đội quân của Lã Tường Lã Khoáng, đánh úp Phàn Thành, phá thế trận “Bát môn kim tỏa” khiến Tào Nhân thua to, nhìn gió giật biết quân Tào đêm nay cướp trại, quả không hổ danh là “thần cơ diệu toán”. Chính Từ Thứ cũng đoán ra liên hoàn kế của Bàng Thống trong trận Xích Bích. Dường như, nếu Từ Thứ không gặp phải nạn này thì sẽ thay vị trí của Khổng Minh, trọn đời gắn bó với Lưu Bị, tên lưu vào sử sách?
Để trả lời cho câu hỏi ấy, chúng ta khoan chưa so sánh tài trí của Từ Thứ và Gia Cát Lượng, mà hãy thử tìm hiểu xem, nếu Gia Cát Lượng rơi vào hoàn cảnh như Từ Thứ, ông sẽ xử sự như thế nào.
Từ Thứ ra đi, “ruột rối bời bời”
Lá thư mà Trình Dục giả mạo nét chữ của Từ mẫu có nội dung như sau:
“Gần đây, em con đã mất, mẹ thành tứ cố vô thân. Đang cơn sầu thảm, không ngờ Tào thừa tướng đánh lừa đưa đến Hứa Xương, nói rằng con theo phản Nguỵ, bắt mẹ giam cầm. May nhờ có bọn Trình Dục, mẹ mới được an toàn. Nếu con về hàng, mẹ sẽ thoát chết. Nhận được thư này, con hãy nhớ ơn đức cù lao, gấp rút tới đây cho toàn đạo hiếu. Rồi dần dà sẽ tính việc về quê cày cấy làm ăn, khỏi mắc tai vạ. Tính mạng mẹ lúc này chẳng khác nghìn cân treo sợi tóc, chỉ mong chờ cứu viện. Thư chẳng hết lời”.
“Từ Thứ xem xong, nước mắt chứa chan, đem thư vào yết kiến Huyền Đức, nói rằng:
(…) lão mẫu bị Tào Tháo bày mưu lừa đến Hứa Xương sắp đem sát hại. Mẹ tôi có viết thư lại gọi, tôi không thể không về. Không phải tôi không muốn đem tài khuyển mã để báo đáp sứ quân, nhưng vì thân mẫu bị bắt, không thể làm sao được…”
Bản thân Từ Thứ cũng tự nhận mình là “ruột rối bời bời”, không còn bụng dạ nào nữa.
Từ Thứ hiếu thảo với mẹ là điều đáng quý, nhưng ông mang cái “tình” còn quá nặng nên mất bình tĩnh sáng suốt, không thể phân biệt thật giả. Tư Mã Huy sau này biết chuyện ngay lập tức nói rằng:
“-Thôi, mắc mẹo Tào Tháo rồi! Tôi đã biết Từ mẫu là người rất trọng khí tiết; dù Tào Tháo có giam cầm bà ấy cũng không khi nào chịu viết thư gọi con. Thư ấy đúng là thư giả. Nguyên Trực không về thì mẹ còn sống, nay về rồi thì mẹ chắc chết.
Huyền Đức thất kinh hỏi cớ làm sao?
Huy đáp:
– Từ mẫu cao nghĩa lắm, tất hổ thẹn không muốn trông mặt con nữa”.
Đến người ngoài còn biết khí chất của Từ mẫu, Từ Thứ là con há không hiểu mẹ mình sao? Chỉ vì lúc ấy tâm ông đã bị cái tình dấy động, không còn có thể bình tĩnh suy xét nữa.
Quả đúng như Tư Mã Huy dự đoán, khi Từ Thứ về gặp mẹ, lão mẫu đã thất kinh, nổi giận mắng rằng:
“- Đồ nhơ nhuốc kia! Mày trôi dạt mấy năm nay, tao tưởng học hành cũng đã khá, ai ngờ mày lại còn ngu thế! Mày đã đọc sách, nên biết trung hiếu không thể vẹn được cả đôi. Mày há lại không biết Tào Tháo là tên giặc dối trên lừa dưới à? Còn Lưu Huyền Đức nhân nghĩa lan rộng bốn bể, lại là dòng dõi nhà Hán, mày đã đi theo, chính là tìm được chủ rồi. Nay chỉ tin một mảnh thư giả, không suy xét kỹ càng, vội bỏ chỗ sáng đâm đầu vào hang tối, rước lấy tiếng xấu. Thật là đồ ngu! Tao còn mặt mũi nào trông thấy mày nữa! Thật mày bôi nhọ tổ tông, sống thừa trong khoảng trời đất vậy!
Từ Thứ nghe mẹ mắng đến nỗi cứ nằm rạp xuống đất không dám ngẩng mặt lên nữa.
Từ mẫu liền trở vào sau bình phong. Được một lát, người nhà ra báo rằng lão bà đã treo cổ tự tử ở xà nhà.
Từ Thứ vội chạy vào cứu, thì Từ mẫu đã tắt thở rồi”.
Lời của Từ mẫu dẫu có nghiêm khắc, nhưng thực là chí lý. Một người không đủ bình tĩnh lý trí, khi lâm nạn không suy xét kỹ càng, hành động theo cảm tính, sau này làm sao có thể giúp Lưu Bị dựng nên cơ nghiệp?
Khổng Minh bình tĩnh phá mẹo Đông Ngô
Từ khi Gia Cát Lượng xuất sơn phò tá Lưu Bị, ông cũng hơn một lần phải đối mặt với khảo nghiệm về tình thân quyến. Theo lời Từ Thứ giới thiệu với Lưu Bị, Gia Cát Lượng mất cha từ sớm, theo chú là Huyền dựng nhà ở Tương Dương, đến khi chú mất thì mới ra cày cấy ở Nam Dương. Gia Cát Lượng có anh trai cả là Gia Cát Cẩn phục vụ nhà Đông Ngô. Trong văn hoá truyền thống, khi cha mất thì người anh cả trong gia đình có địa vị như cha vậy, Gia Cát Lượng với anh trai Gia Cát Cẩn dù chưa nói đến tình thì cũng là muôn phần nể vì, kính trọng. Vì thế, Đông Ngô đã hai lần dùng Gia Cát Cẩn để dụ dỗ và uy hiếp Gia Cát Lượng.
Lần thứ nhất, trước trận Xích Bích, Chu Du mời Gia Cát Cẩn đến nhờ dụ Khổng Minh về với Đông Ngô. Gia Cát Cẩn “lên ngựa chạy ngay đến nhà khách, vào thăm Khổng Minh. Khổng Minh mời vào, hỏi han trò chuyện rồi, Cẩn khóc mà nói rằng:
– Em có biết Bá Di, Thúc Tề ngày xưa không?
Khổng Minh nghĩ thầm đây tất là Chu Du cho đến dụ mình, liền đáp lại rằng:
– Bá Di, Thúc Tề là bậc thánh hiền đời xưa.
Cẩn nói:
– Hai ông ấy dẫu đến lúc chết đói ở núi Thú Dương, anh em cũng còn ở với nhau một chỗ. Nay ta với em, ruột thịt một nhà, thế mà mỗi người thờ một chủ, sớm tối không được đoàn tụ với nhau, chẳng đáng thẹn với Di Tề lắm ư?
Khổng Minh nói:
– Anh nói là tình em giữ là nghĩa. Anh với em cùng là dòng dõi nhà Hán. Nay Lưu hoàng thúc là tôn thất nhà Hán, nếu anh bỏ Đông Ngô về thờ hoàng thúc với em, thì trước không hổ thẹn với bầy tôi nhà Hán, sau nữa anh em lại được họp mặt nhau, thế là tình nghĩa hai đường vẹn cả. Anh nghĩ thế nào?
Cẩn nghĩ bụng, mình đến dụ nó, chẳng hoá nó lại dụ mình. Rồi ngồi ngẩn mặt ra, chẳng nói được câu gì. Lát sau Cẩn đứng dậy ra về yết kiến Chu Du, thuật lại lời Khổng Minh”.
Vậy là bằng tài trí của mình, Gia Cát Lượng đã làm thất bại toan tính của Chu Công Cẩn.
Lần thứ hai, Tôn Quyền dùng kế của Trương Chiêu, vờ bắt giam cả già trẻ nhà Gia Cát Cẩn, “sai Cẩn vào Xuyên báo cho Gia Cát Lượng phải khuyên Lưu Bị trả Kinh Châu, nếu không sẽ bắt tội cả nhà Gia Cát Cẩn. Lượng nghĩ đến tình anh em ruột, tất phải vâng lời”.
Đây thực sự là một thử thách không dễ dàng. Khổng Minh vừa phải hiếu đễ trọn đạo làm em, vừa phải trung nghĩa trọn đạo làm tôi. Trọn đạo làm em là không thể khước từ lời van nài của anh, phải có trách nhiệm với an nguy của gia đình anh; trọn đạo làm tôi là phải giữ đất Kinh Châu cho Lưu Bị. Như mẹ Từ Thứ khi xưa từng nói “Mày đã đọc sách, nên biết trung hiếu không thể vẹn được cả đôi”, Khổng Minh phen này nên chọn bên nào đây?
Từ Thứ khi xưa đã lựa chọn chạy về đất Tào thăm mẹ để tròn chữ hiếu. Dù rằng ông thề cả đời không hiến một kế gì cho Tào Tháo, cũng là trung, thật đáng quý, nhưng đã không thể trực tiếp giúp gì cho Lưu Bị nữa. Còn Gia Cát Lượng thì sao?
“Cẩn đi được mấy ngày đã đến Thành Đô, sai người báo tin cho Huyền Đức. Huyền Đức hỏi Khổng Minh rằng:
– Lệnh huynh đến đây có việc gì?
Lượng nói:
– Đây tất lại là Tôn Quyền sai đến đòi Kinh Châu.
Huyền Đức nói:
– Nói lại làm sao bây giờ?
Khổng Minh nói:
– Chỉ nên nói như thế, như thế…
Bàn định đâu đấy, Khổng Minh ra đón Gia Cát Cẩn vào thẳng công quán chứ không về nhà riêng. Chào hỏi xong Cẩn hu hu khóc ngay lên. Lượng hỏi:
– Anh có việc gì, cứ nói cho em biết, can gì mà phải khóc?
Cẩn nói:
– Cả già trẻ nhà ta, không khéo phải tội cả.
Lượng nói:
– Có phải vì việc không trả Kinh Châu mà cả nhà anh bị bắt có phải không? Nếu thế thì em sao cho đành dạ! Thôi, anh cứ yên tâm, để em nghĩ kế trả lại Kinh Châu là xong.
Cẩn mừng lắm, theo ngay Khổng Minh vào ra mắt Huyền Đức trình tờ thư của Tôn Quyền. Huyền Đức xem xong, nổi giận lên, nói rằng:
– Tôn Quyền đi gả em cho ta, thừa cơ ta đi vắng, dám sai người sang trộm em về, ta đang muốn cất quân sang đánh báo thù việc ấy. Đông Ngô không biết nghĩ, lại còn đến đòi Kinh Châu hay sao?
Khổng Minh khóc lạy xuống đất mà nói rằng:
– Ngô hầu bắt cả nhà anh tôi mà chết, tôi cũng không sống được một mình. Xin chúa công thương tôi mà trả Kinh Châu cho Đông Ngô, cho tôi được vẹn tình anh em.
Huyền Đức nhất định không nghe. Khổng Minh kêu khóc năn nỉ, giờ lâu Huyền Đức mới nói rằng:
– Có phải thế, ta nể mặt quân sư hãy trả cho một nửa Kinh Châu là ba quận Trường Sa, Quế Dương và Linh Lăng.
Khổng Minh lại nói:
– Nhờ ơn chúa công đã đồng ý, thì xin viết thư cho Vân Trường, để giao ba quận đó cho anh tôi.
Huyền Đức bảo Gia Cát Cẩn rằng:
– Tử Du có đến Kinh Châu, nên nói mềm mỏng với em ta cho khéo. Em ta tính nóng như lửa, ta còn phải sợ, nên cẩn thận mới được.
Cẩn xin tờ thư, rồi từ biệt Huyền Đức, Khổng Minh lên đường, đến thẳng ngay Kinh Châu. Vân Trường ra tiếp vào ngồi chơi. Cẩn đưa tờ thư của Huyền Đức ra và nói rằng:
– Huyền Đức đã hứa trả cho Đông Ngô ba quận trước, xin tướng quân giao ngay cho, để tôi về thưa lại với chúa công tôi.
Vân Trường biến sắc mặt, nói rằng:
– Ta kết nghĩa với anh ta ở vườn đào, thề với nhau giúp nhà Hán. Kinh Châu là đất của nhà Đại Hán, có đâu ta dám đem một tấc nào cho ai. Tướng ở ngoài, dẫu vua sai cũng có khi không chịu. Anh ta tuy viết thư ra đây, nhưng ta nhất định không giao thì đã làm sao?
Cẩn nói:
– Ngô hầu bắt giam cả vợ con tôi, nếu tướng quân không trả, thì nhà tôi phải tội cả, xin tướng quân thương đến tôi một chút.
Vân Trường nói:
– Đó là quỷ kế của Ngô hầu, nói dối thế nào được ta?
Cẩn nói:
– Tướng quân thật không nghĩ đến tình nghĩa gì cả?
Vân Trường cầm lăm lăm thanh kiếm quát lên rằng:
– Đừng nói nữa, thanh kiếm này không có nể nang đâu nhé!
Quan Bình bước lên nói rằng:
– Xin cha bớt giận, còn phải nể mặt quân sư!
Vân Trường nói:
– Nếu không nể mặt quân sư, thì không cho ngươi trở về được Đông Ngô đâu!
Cẩn đỏ mặt thẹn thùng, từ giã xuống thuyền, lại trở vào Tây Xuyên nói với Khổng Minh. Nhưng Khổng Minh đã đi tuần kiểm nơi khác, không có nhà. Cẩn lại phải kêu với Huyền Đức, khóc lóc thuật chuyện Vân Trường đã không trả lại Kinh Châu còn muốn giết mình.
– Em ta nóng tính khó nói lắm. Tử Du hãy chịu khó trở về, để ta lấy nốt Đông Xuyên và Hán Trung, sai Vân Trường ra giữ chỗ ấy, rồi mới giao trả được Kinh Châu.
Cẩn không sao được, phải ra về, kể lại chuyện đầu đuôi với Tôn Quyền. Tôn Quyền nổi giận nói rằng:
– Tử Du đi đi lại lại, không được trò gì, hay là lại mắc phải mẹo Gia Cát Lượng rồi đây?
Cẩn nói:
– Có đâu! Em tôi kêu khóc mãi Huyền Đức mới trả ba quận, không ngờ Vân Trường lại ngang ngạnh không chịu”.
Kế hoạch của Tôn Quyền thế là phá sản, Gia Cát Cẩn cũng bình an vô sự, mà không thể trách Khổng Minh không nghĩ tình anh em. Khổng Minh lâm sự bình tĩnh, sáng suốt suy xét, nên đã có thể khéo léo đối phó, trung hiếu vẹn cả đôi đường.
Có thể có người cho rằng Từ Thứ với mẹ già là nhớ nghĩ ân đức cù lao, tình thâm nghĩa trọng, hơn hẳn quan hệ giữa anh em Gia Cát Lượng, dù Gia Cát Lượng có kính anh như cha đi nữa thì tình cảm cũng không thể nào bằng, nên bình tĩnh lý trí hơn cũng là điều dễ hiểu. Điều này cũng khó lòng đánh giá. Nhưng có một sự thật rõ ràng là, cái mà Từ Thứ nhận được chỉ là một lá thư, còn điều mà Gia Cát Lượng đối mặt là người thân bằng xương bằng thịt đang khóc lóc trước mặt mình.
Muốn thành công, tâm phải tĩnh
Hai số phận khác nhau của Từ Thứ và Gia Cát Lượng xuất phát từ thái độ đối đãi khác nhau trước cảnh ngộ tương đồng: một người thì tâm phiền ý loạn, một người thì tâm tĩnh mà ý tự sáng tỏ. Từ Thứ quá chấp trước vào tình cảm, rốt cuộc lại đẩy mẹ đến chỗ chết. Gia Cát Lượng thấu tình đạt lý, cuối cùng có thể bảo vệ được anh em. Nếu Từ Thứ có được tĩnh khí của Gia Cát Lượng, thì khảo nghiệm liên quan đến tình thân quyến của ông sẽ tự tiêu tan, vì vốn lá thư ấy là giả mạo.
Gia Cát Lượng trong lịch sử là người coi trọng việc tu dưỡng nội tâm an tĩnh. Trong “Giới tử thư” gửi con trai, ông viết:
“Phẩm hạnh của người tài đức song toàn là dựa vào nội tâm an tĩnh, tinh lực tập trung để tu dưỡng thân tâm, dựa vào tác phong cần kiệm chất phác để bồi dưỡng đức hạnh. Không coi nhẹ danh lợi thế tục thì không thể sáng tỏ chí hướng của mình. Thân tâm không yên tĩnh thì không thể thực hiện được lý tưởng lớn lao cao xa”.
Đọc “Tam quốc diễn nghĩa”, ta thấy Gia Cát Lượng trong lúc thân kề miệng cọp vẫn bình thản thong dong. Là ông tự tin vào tài trí của mình nên ung dung không sợ, hay chính là vì ông ung dung không sợ nên trí tuệ hiển lộ xuất ra? Lấy một cái tâm bất động để ứng phó với vạn động, Gia Cát Lượng tin rằng “Mệnh của ta đã có Trời định, kẻ khác làm sao hại được”. Ngẫm ra, Từ Thứ để tuột khỏi tay cơ hội phò tá Lưu Bị làm nên nghiệp lớn nào phải vì ông không đủ cơ mưu, mà vì phương diện tu dưỡng thân tâm còn có phần thiếu sót. Khổng Minh sau này có thể trở thành thừa tướng nhà Thục Hán, đâu chỉ bởi vì ông có tài của thừa tướng, mà còn vì ông có cái đức của thừa tướng vậy!