Tự mình giáng chức là cách để Gia Cát Lượng không chỉ giữ nghiêm quân lệnh mà còn để chứng minh quyền lực và địa vị đối với quân – thần của triều đình Thục Hán.

Gia Cát Lượng, tự là Khổng Minh (181–234), hiệu là Ngọa Long tiên sinh, là nhà 𝑐ℎ𝑖́𝑛ℎ 𝑡𝑟𝑖̣, 𝑛ℎ𝑎̀ 𝑞𝑢𝑎̂𝑛 sự kiệt xuất của Trung Quốc trong thời Tam quốc. Ông làm đến chức thừa tướng của nhà Thục, dưới trướng của Lưu Bị.

Đóng góp lớn nhất của Gia Cát Lượng cho nhà Thục là việc giúp hình thành thế chân vạc Tam quốc, liên minh Thục-Ngô chống Ngụy. Ông được công nhận là một trong những chiến lược gia vĩ đại và xuất sắc nhất trong thời đại của ông, và được so sánh với một chiến lược gia tài ba khác của Trung Quốc là Tôn Tử. Tuy nhiên, chiến dịch đ.ánh Tào Ngụy do ông phát động đều không thành công, cuối cùng bệnh mất trong doanh trại.

Nguyên nhân khiến Gia Cát Lượng đi nước cờ “tự hạ mình ba cấp”

Năm 228, Gia Cát Lượng mang quân đ.ánh Ngụy lần thứ nhất. Ngụy Minh Đế Tào Tuấn sai Tư Mã Ý và Trương Cáp mang quân ra địch.

Để đối địch với danh tướng Trương Cáp, mọi người đều cho rằng nên dùng mãnh tướng Ngụy Diên hoặc Ngô Ý đã dày dạn kinh nghiệm trận mạc, nhưng Gia Cát Lượng lại chọn Mã Tốc làm tiên phong. Ông được lệnh cùng Vương Bình cầm quân khẩn cấp ra 𝑡𝑟𝑎̂́𝑛 𝑡ℎ𝑢̉ Nhai Đình.

Mã Tốc vào trướng Khổng Minh nài nỉ van xin được lập công – Tam quốc diễn nghĩa 1996.

Đến Nhai Đình, Mã Tốc làm ngược lại với phương án chỉ huy của Gia Cát Lượng. Mã Tốc không đóng quân ở nơi đường gần sông là chỗ có nước cho quân dùng, mang 2 vạn quân tr.ấn giữ trên núi với phương án “Trên núi đ.ánh xuống, thế như chẻ tre”. Vương Bình nhiều lần phản đối, nhưng Mã Tốc không nghe. Cuối cùng, Vương Bình đành xin Mã Tốc cho 5000 người ngựa ra đóng trại dưới chân núi.

Trương Cáp theo sự chỉ đạo của Tư Mã Ý đã mang quân v.ây trại của Mã Tốc trên núi, rồi cắt đứt đường nước. Quân Thục thiếu nước, 𝘩𝘰𝘢̉𝘯𝘨 𝘭𝘰𝘢̣𝘯. Trương Cáp dồn sức 𝘵𝘢̂́𝘯 𝘤𝘰̂𝘯𝘨 ph.á tan Mã Tốc. Cánh quân Mã Tốc bỏ chạy tán loạn. Nhai Đình thất thủ. Đại quân Thục không thể tiến nữa, buộc phải lui về Hán Trung.

Để làm nghiêm quân pháp, Gia Cát Lượng hạ lệnh gi.am Mã Tốc vào ng.ục đợi ngày 𝘹𝘶̛̉ 𝘵.𝘶̛̉ 𝘩.𝘪̀𝘯𝘩. Trước khi bị 𝘤𝘩.𝘦́.𝘮, Mã Tốc viết thư cho Gia Cát Lượng, xin hãy nâng đỡ cho con mình. Tướng sĩ nước Thục đều thương xót ông. Khi bị 𝘤𝘩.𝘦́.𝘮, Mã Tốc mới 39 tuổi.

Sau này Gia Cát Lượng vẫn luôn để ý an ủi, trợ cấp cho gia đình Mã Tốc như lúc ông còn sống. Tưởng Uyển từng thắc mắc Gia Cát Lượng, lẽ ra nên để Mã Tốc sống để có ngày lập công chuộc t.ộ.i. Gia Cát Lượng nói rằng bản thân mình cũng rất thương xót ông nhưng vì giữ nghiêm mệnh lệnh nên phải thực thi.

Gia Cát Lượng rất thương xót Mã Tốc nhưng vì giữ nghiêm mệnh lệnh nên phải thực thi.

Về việc Mã Tốc bị 𝘹.𝘶̛̉ 𝘵.𝘶̛̉, sử gia Tập Tạc Xỉ không đồng tình với Gia Cát Lượng. Ông dẫn trường hợp vua nước Tấn không x.ử tướng Tuân Lâm Phủ bại trận nên sau này có ích cho nước, còn Sở Thành vương không biết tài năng của Thành Đắc Thần cũng 𝘹.𝘶̛̉ 𝘵.𝘶̛̉ vì một trận thua nên sau này thất bại. Sau đó Tập Tạc Xỉ phân tích thêm: Nước Thục hẻo lánh một phương, nhân tài vốn ít hơn nước khác mà lại bỏ kẻ tuấn kiệt, coi minh pháp quan trọng hơn nhân tài… muốn thành đại nghiệp há chẳng phải rất khó sao? Huống hồ Lưu Bị vốn đã nói rằng Mã Tốc không nên trọng dụng, Gia Cát Lượng sau đó vẫn dùng ông, bản thân điều này đã cho thấy Mã Tốc là nhân tài không thể xếp xó, không thể khinh s.á.t.

Hành động “xưa nay hiếm” của Gia Cát Lượng

Sau thất bại ở Nhai Đình, Gia Cát Lượng xin Lưu Thiện 𝘹.𝘶̛̉ 𝘱𝘩.𝘢̣𝘵 mình. Mặc dù Hán Hoài đế đã hết lòng khuyên giải, nhưng Khổng Minh vẫn một mực không nghe, kiên quyết muốn tự giáng chức xuống ba cấp bậc.

Trước sự kiên quyết của Thừa tướng đương triều, Lưu Thiện không còn cách nào khác, đành phải phê chuẩn, giáng Gia Cát Lượng xuống làm Tả Tướng quân. Mặc dù cấp bậc thay đổi, nhưng Khổng Minh vẫn nắm trong tay quyền lực cai quản triều đình như trước đây.

Dù không ở ngôi Thiên tử, Gia Cát Lượng vẫn nắm trong tay quyền lực không thua kém Thiên tử. 

Từ cổ chí kim, 𝘹.𝘶̛̉ 𝘱𝘩.𝘢̣𝘵 đều là việc làm của cấp trên đối với cấp dưới. Mục tiêu của các triều đại phong kiến là đ𝘰̣̂𝘤 𝘤𝘩𝘪𝘦̂́𝘮 thiên hạ, thi hành chính sách một người 𝘵𝘩𝘰̂́𝘯𝘨 𝘵𝘳𝘪̣.

Trong đó, Hoàng đế là vị trí tối cao, nắm trong tay quyền xét x.ử người khác, cũng không ai có quyền 𝘹.𝘶̛̉ 𝘱𝘩.𝘢̣𝘵 nhà vua.

Là thần tử của Hoàng thượng, các vị đại thần có quyền được đề xuất vấn đề cách chức hay thăng chức, nhưng quyền định đoạt và thực thi vẫn nằm trong tay Hoàng đế.

Do đó, việc một bề tôi như Gia Cát Lượng lại có quyền tự quyết định cấp bậc của mình là điều “xưa nay hiếm”.

Tuy là hiếm, nhưng sự việc trên cũng không phải chưa từng có tiền lệ. Chiêu bài “dùng tóc thay 𝘵𝘩𝘶̉ 𝘤𝘢̂́𝘱” của Tào Tháo – một đại nhân vật cùng thời với Gia Cát Lượng – chính là minh chứng cho điều này.

Trong một lần xuất chinh, đoàn quân của Tào Tháo có đi qua một ruộng lúa mạch. Khi ấy, ông hạ lệnh: “Sĩ tốt không được làm hư hao lúa mạch, ai trái lệnh sẽ bị 𝘤𝘩.𝘦́.𝘮 đ𝘢̂̀𝘶.”

Kết quả là binh sĩ không ai dám phạm đến đồng ruộng, chỉ có con ngựa của Tào Tháo vì giật mình mà xéo nát cả một vùng.

Tào Tháo vì việc này mà nhận 𝘵𝘰̣̂𝘪 với chủ bộ. Chủ bộ dùng điển cố Xuân thu để khuyên giải: “Từ xưa tới nay hình 𝘱𝘩𝘢̣𝘵 vốn không sử dụng với người tôn quý.”

Nhưng Tháo nói: “Người định ra luật lệ mà còn làm trái luật, vậy sao có thể chỉ huy thuộc hạ? Nhưng ta thân là người cầm quân, chưa thể lĩnh 𝘵𝘰̣̂𝘪 𝘤𝘩.𝘦̂́.𝘵, nay sẽ tự 𝘱𝘩𝘢̣𝘵 mình.” Nói xong, Tào Tháo rút 𝘬.𝘪.𝘦̂́.𝘮, cắt tóc rồi ném xuống đất.

Chiêu bài thị uy của Gia Cát Lượng

Có người cho rằng, không thể đánh đồng hành động tự hạ ba cấp của Gia Cát Lượng và việc cắt tóc của Tào Tháo, bởi một người là đại trung thần, kẻ kia lại là gi.an thần.

Trên thực tế, địa vị của hai nhân vật này không có nhiều điểm khác nhau, đều từng là người để “Thiên tử cậy nhờ”.

Chỉ khác ở chỗ Tào Tháo hoàn toàn 𝘬𝘩𝘰̂́𝘯𝘨 𝘤𝘩𝘦̂́ Hán Hiến Đế, biến nhà vua trở thành bù nhìn còn quyền hành “nắm toàn bộ việc chính sự” của Gia Cát Lượng lại được Hán Hoài Đế Lưu Thiện “ban” cho.

Thực chất, hành động tự giáng ba cấp của Gia Cát Lượng là một cách “thị uy”. Nhưng Khổng Minh đã nắm trong tay quyền lực gần như tuyệt đối, vì sao còn phải làm như vậy?

Nước cờ thâm sâu này của Gia Cát Lượng chủ yếu hướng tới hai đối tượng. Đó là đại thần Lý Nghiêm và Hán Hoài Đế Lưu Thiện.

Năm xưa, Lý Nghiêm cũng là một trong những vị trọng thần từng được tiên đế phó thác. Năm Chương Vũ thứ 3 (năm 223), trước lúc lâm chung, Lưu Bị có ủy thác cho ông cùng Gia Cát Lượng phò tá Lưu Thiện.

Theo di chiếu, Lý Nghiêm được quyền “thống lĩnh quân sự”. Nhưng sau đó, Lý Nghiêm đều ở tại Vĩnh Yên, việc nam chinh, bắc phạt đều không thấy bóng dáng vị đại thần này ở vai trò “thống lĩnh”.

Kết cục thất bại trong chuyến Bắc Phạt năm 228 của Gia Cát Lượng là một vấn đề 𝘲𝘶𝘢̂𝘯 𝘴𝘶̛̣. Phàm là việc liên quan tới 𝘲𝘶𝘢̂𝘯 𝘤𝘰̛, 𝘤𝘩𝘪𝘦̂́𝘯 𝘴𝘶̛̣, triều đình đều họp bàn để xử lý công – tội của những người có liên quan.

Thiết nghĩ đợi kẻ khác t.ố lỗi không bằng tự mình nhận sai, Gia Cát Lượng đã nhanh tay thỉnh tội với Hoàng đế, sau đó tự hạ mình ba cấp.

Hành động này không chỉ tránh được việc 𝘤𝘩𝘪̉ 𝘵𝘳𝘪́𝘤𝘩 từ phía quần thần mà còn là một nước cờ để Khổng Minh thị uy trước đại thần Lý Nghiêm.

Chính nhờ hành động đó của Gia Cát Lượng đã khiến quần thần không có lời nào để dị nghị, Lưu Thiện vẫn giao 𝘣𝘪𝘯𝘩 𝘲𝘶𝘺𝘦̂̀𝘯 để ông có thể tiếp tục chiến lược bắc phạt phục hưng Hán thất, chỉ tiếc rằng cho đến tận lúc quy tiên ước nguyện cả đời của ông cũng vẫn không thực hiện được.

Gia Cát Lượng dù tài giỏi những cũng vẫn không thể phục hưng được Hán thất.

Tháng 8 năm 234, Gia Cát Lượng sinh bệnh nặng. Vua Thục Hán là Lưu Thiện phái Thượng thư Lý Phúc, ngày đêm phóng đến tiền tuyến gò Ngũ Trượng thăm hỏi bệnh tình của Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng nằm trên giường bệnh dặn dò Lý Phúc: trước mắt sự nghiệp bắc phạt chưa thành công, hy vọng đại thần triều đình vẫn một lòng như cũ, tận tâm phò tá Lưu Thiện, kế tục hoàn thành sự nghiệp phục hưng nhà Hán mà mình chưa hoàn thành được.

Lại yêu cầu Lý Phúc chuyển lời cho nhà vua rằng: sau khi ông ta mất không cần đưa về Thành Đô chôn cất, cứ an táng ở núi Định Quân tại tiền tuyến là được, để tượng trưng chí hướng “da ngựa bọc thây 𝘤𝘩𝘦̂́𝘵 ở sa trường”. Lý Phúc đều ghi nhớ lời di chúc của Gia Cát Lượng, liền mau chóng trở về Thành Đô báo cáo lại với Lưu Thiện.

Cuối tháng 8 năm Kiến Hưng thứ 12 (tức năm 234), Gia Cát Lượng bệnh mất ngay trong chiến dịch Bắc Phạt lần thứ 6, thọ 54 tuổi; kể từ khi ông ra khỏi lều cỏ Long Trung đã trải qua 27 năm, ở chức vụ Thừa tướng Thục Hán được 14 năm.

Cuốn Tấn Dương thu của Tôn Thịnh đời Đông Tấn có chép: “Truyền thuyết kể rằng vào hôm Gia Cát Khổng Minh từ trần, ở trên khoảng trời phía bắc, có một ngôi sao đỏ rất lớn, từ phía đông bắc theo hướng tây nam chợt loé sáng rồi tắt đi…”.

Hậu chủ Lưu Thiện nghe tin Gia Cát Lượng đã mất, đau đớn khóc lóc không thôi, lại xuống chiếu truy tặng ấn thụ Vũ Hương hầu, cùng dựa vào phẩm đức và công tích của Gia Cát Lượng lúc sống, đặt tên Thụy là Trung Vũ hầu.