Những nhân vật này cậy tài, khoe tài, ngạo mạn sẽ tự đem đến tai h.ọa cho bản thân, ngay cả người yêu quý trân trọng nhân tài, có tấm lòng khoan dung như Tào Tháo cũng không dung nhẫn nổi.
Tào Tháo yêu quý người tài.
Tào Tháo tự là Mạnh Đức, còn gọi Tào A Man, người huyện Bạc, tỉnh An Huy, Trung Quốc. Ông là một trong những nhà chính trị, quân sự nổi tiếng của Trung Hoa. Dù mang tiếng đa nghi, gian hùng, ông vẫn được đánh giá là người dũng cảm, mưu trí hơn người.
Tào Tháo yêu người tài, khát người tài, tìm mọi cách để có được người tài, chính vậy bên cạnh ông luôn có những mưu sĩ hàng đầu thời bấy giờ theo phò tá.
Tuy nhiên, một người luôn coi trọng nhân tài như Tào Tháo lại từng xuống tay với nhiều nhân tài kiệt xuất dưới trướng của mình, ắt hẳn phải có nguyên do của nó.
Trần Cung
Trần Cung là mưu sĩ thời Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Trần Cung (?-199) tự Công Đài là người Đông Quận (thuộc Duyện Châu, nay là phía nam huyện Tân, Sơn Đông). Sách Điển lược mô tả ông là người tráng liệt cứng cỏi.
Thời trẻ, ông là người có tiếng, những kẻ sĩ nổi danh trong nước đều đến kết giao. Khi l.oạn lạc nổi ra, Trần Cung lúc đầu theo Tào Tháo vào khoảng năm 190. Công lao nổi bật nhất của Trần Cung lúc dưới trướng Tào Tháo là lấy được Duyện Châu (phía tây tỉnh Sơn Đông ngày nay) bằng con đường giao thiệp, thu phục được mấy chục vạn quân mà không mất một mũi t.ên hòn đ.ạn.
Có thể nói, quan hệ của hai người lúc đó vô cùng thân thiết. Trần Cung còn hy vọng cùng Tào Tháo làm nên nghiệp bá vương.
Tào Tháo làm thứ sử Duyện Châu, mang quân sang Từ Châu (phía bắc Giang Tô ngày nay) đánh Đào Khiêm vì cho rằng Đào Khiêm gây ra cái ch.ết của cha mình là Tào Tung. Năm 194, thấy Tào Tháo ᴛàɴ sáᴛ nhiều người vô t.ội ở Từ Châu, Trần Cung thất vọng về Tào Tháo nên quyết định bỏ họ Tào theo Lã Bố.
Tam quốc chí của Trần Thọ chép rằng, do sinh lòng ngờ vực, Trần Cung nhân lúc Tào Tháo mải mê đ.ánh Từ Châu, đã ph.ản bội Tào Tháo và đầu quân cho Lã Bố. Tào Tháo buộc phải bỏ Từ Châu quay về chống Lã Bố.
Sau một thời gian dài bị bao vây, cuối cùng Lã Bố hết lương và bị đ.ánh bật ra khỏi Duyện Châu, phải chạy sang Hạ Bì (nay là Bi Châu), thủ phủ của Từ Châu và xin Lưu Bị che chở.
Năm 198, Lã Bố bị đại quân Tào Tháo vây khốn mấy tháng trời ở Hạ Phì. Lã Bố phải đầu hàng nhưng cũng bị Tào Tháo x.ử t.ử.
Trần Cung cũng bị b.ắt sống. Tào Tháo hỏi ông nên xử lý thế nào. Trần Cung đáp rằng: “Ta là thần mà lại bất trung, là con mà lại bất hiếu, theo lý thì phải bị đưa ra pháp trường”. Tào Tháo nuối tiếc mà rằng: “Ngươi ch.ết rồi, mẹ già của ngươi phải làm sao?”.
Trần Cung thở dài thườn thượt, nói: “Ta nghe nói rằng những người định lấy hiếu trị vì thiên hạ thì sẽ không ɢɪếᴛ cha mẹ của người khác. Mẹ già của ta sống hay ch.ết, chỉ có thể do ngài định đoạt, ta đã không thể quyết định được nữa rồi!”.
Tào Tháo lại hỏi: “Thế thì vợ ngươi, con trai ngươi phải làm thế nào?”. Trần Cung đáp: “Ta nghe nói người định dùng nhân trị vì thiên hạ sẽ không làm hại vợ và con cái, không tuyệt d.iệt đời sau của người khác. Vợ và con của ta sống hay ch.ết, cũng chỉ có thể do ngài quyết định”.
Tào Tháo nghe xong, yên lặng không nói thêm lời nào. Một lúc sau, Trần Cung lại yêu cầu: “Xin hãy lôi ta ra và x.ử t.ử để làm gương cho quân pháp!”. Nói xong Trần Cung tự mình chạy phăm phăm ra ngoài, binh sĩ cản thế nào cũng không thể ngăn nổi ông. Tào Tháo không biết phải làm thế nào, chỉ biết nắm tay lại mà rằng:
“Ngươi yên tâm, mẹ già của ngươi cũng như mẹ già của ta, ta nhất định sẽ thay ngươi nuôi dưỡng và tiễn đưa bà lúc lâm chung!”. Tào Tháo chảy nước mắt, lặng lẽ theo sau đưa tiễn. Lúc này Trần Cung vẫn cứ bước đi thẳng, cũng chẳng ngoảnh đầu nhìn lại thêm lần nào.
Sau khi Trần Cung ch.ết, Tào Tháo không quên lời hứa của mình. Ông cử người đón mẹ già của Trần Cung về phụng dưỡng mãi cho tới khi bà qua đời. Con cái của Trần Cung sau khi trưởng thành cũng đều được Tào Tháo lo chuyện hôn sự.
Sự quan tâm, chăm sóc của Tào Tháo với người nhà Trần Cung còn chu đáo hơn cả khi Trần Cung còn sống. Chuyện này không chép trong Tam quốc chí, mà chép trong Lã Bố truyện, Bùi Tùng Chi dẫn trong sách Điển lược.
Hứa Du
Hứa Du có tài nhưng nhiều tật.
Hứa Du (157 – 204) là một mưu sĩ thân tín của Viên Thiệu cuối thời Đông Hán. Hứa Du và các mưu sĩ khác của Viên Thiệu là Điền Phong, Quách Đồ và Thẩm Phối tuy bên ngoài là bằng mặt nhưng không hề bằng lòng, ngược lại họ luôn tìm cách hạ bệ đối phương để giành lấy sự tín nhiệm của Viên Thiệu. Bản chất của Hứa Du là một con người rất tham lam.
Trong trận Quan Độ, Hứa Du đã rời bỏ Viên Thiệu và đầu quân cho Tào Tháo. Hứa Du sau đó, đã hiến kế cho Tào Tháo ᴛấɴ ᴄôɴɢ vào kho lương của quân Viên ở Ô Sào do tướng Thuần Vu Quỳnh (Quách Du Quỳnh) trấn giữ. Nhờ vào kế sách của Hứa Du mà Tào Tháo đã giành được chiến thắng trong trận chiến Quan Độ trước quân Viên Thiệu.
Sau khi đại bại ở trận Quan Độ, Viên Thiệu suy sụp, ốm nặng rồi qua đời năm 202. Các con Viên Thiệu là Viên Đàm (con cả) và Viên Thượng (con út) tranh giành quyền thừa kế. Viên Thượng tự lập làm Châu mục Ký châu kiêm đốc Ký U Tinh Thanh tứ châu quân sự. Viên Đàm tự xưng là Xa kỵ tướng quân.
Năm 203, Tào Tháo sau nhiều tháng đ.ánh Ký Châu không được, bèn rút quân về nam cho họ Viên đ.ánh lẫn nhau.
Quả nhiên khi quân Tào rút lui, anh em họ Viên lại xung đột. Viên Thượng giao cho Thẩm Phối giữ Nghiệp Thành (thủ phủ Ký Châu), còn mình mang quân đ.ánh Thanh châu. Viên Đàm thua trận, bị Viên Thượng tr.uy k.ích đến Bình Nguyên – thủ huyện của Thanh Châu.
Đầu năm 204 Tào Tháo khởi đại binh đến đ.ánh Nghiệp Thành. Theo sử liệu, Hứa Du có công lớn trong trận Quan Độ và trận đ.ánh ch.iếm Nghiệp Thành. Được Tào Tháo rất xem trọng, nhưng Hứa Du lại tự mua lấy cái ch.ết.
Ông ta luôn hạ nh.ục Tào Tháo trước mặt mọi người, thậm chí gọi cả tên cúng cơm của Tào Tháo, không kiêng nể gì: “Này, A Man! Không có tôi, ông làm sao lấy được Ký Châu?”.
Hứa Du cậy mình có công thường hay chửi mắng Tào Tháo.
Lần khác Hứa Du lại hỏi bộ hạ của Tào Tháo sau khi Tào Tháo chiếm Nghiệp Thành: “Không có ta Tào Tháo làm sao vào được cổng này?”. Tào Tháo khi yếu thế còn cười cợt coi như không, nhưng Hứa Chử do không kiềm được sự tức giận đã ɢɪếᴛ ch.ết Hứa Du. Xét cho cùng thì Hứa Du tự tìm lấy cái ch.ết.
Về cái ch.ết của Hứa Du, có nhiều đánh giá, phải chăng do Hứa Du là chỗ bạn bè cũ, lại từng nhiều lần lập công lớn, nếu như vì vài câu nói của Hứa Du mà ɢɪếᴛ ông ta, Tào Tháo sẽ mang tiếng là đố kỵ người hiền tài nên việc Hứa Chử ɢɪếᴛ Hứa Du có lẽ không hẳn là sự vô tình không kiềm chế mà ra tay, có lẽ có sự nhúng tay ngầm của Tào Tháo.
Chu Bất Nghi
Sử sách Trung Quốc không ghi chép nhiều về Chu Bất Nghi, một phần vì ông cũng không có nhiều đóng góp cho đến khi bị sáᴛ ʜạɪ năm 17 tuổi.
Chu Bất Nghi tự là Nguyên Trực, người Linh Lăng (thuộc Hồ Nam sau này), xuất thân là cháu của Biệt giá Lưu Tiên dưới trướng Lưu Biểu.
Sinh trưởng trong một gia đình danh giá, thiếu niên họ Chu từ sớm đã bộc lộ tài trí hơn người. Sau này, ông được người cậu Lưu Tiên gửi gắm cho danh sĩ Lưu Ba – bậc kỳ tài mà ngay tới Gia Cát Lượng còn phải thú nhận “tự thẹn không bằng”.
Chu Bất Nghi. (Ảnh minh họa).
Nhờ tài năng cùng xuất thân của mình, danh tiếng của Chu Bất Nghi đã nhanh chóng tới tai vị quân chủ họ Tào.
Tương truyền rằng, Tào Tháo còn đánh giá thiếu niên họ Chu thông minh chẳng kém người con thần đồng của mình là Tào Xung. Vì vậy, ông không ngại tạo điều kiện cho Chu Bất Nghi cùng Tào Xung trở thành bằng hữu. Mối quan hệ tốt giữa hai người càng khiến Tào Tháo quý mến Bất Nghi.
Các học giả Trung Quốc nhận định, Tào Tháo khi đó đã ngầm lựa chọn Tào Xung là người kế tục, nối tiếp sự nghiệp của mình và phụ giúp cho con trai không ai khác, chính là Chu Bất Nghi.
Khi Tào Tháo bế tắc trong việc ᴛấɴ ᴄôɴɢ Liễu Thành năm 206, Chu Bất Nghi (14 tuổi), hiến lên 10 kế, ngay lập tức giúp Tào Ngụy vượt trở ngại. Vị thế của Chu Bất Nghi từ đó ngày càng được củng cố.
Tuy nhiên, điều khiến Tào Tháo không hài lòng là việc Chu Bất Nghi từ chối lấy con gái mình. Sử sách chép rằng, Tào Tháo đã phải “mở to mắt” khi nghe tin Chu Bất Nghi từ chối mối hôn sự này.
Nhưng Tào Tháo cũng ngậm ngùi cho qua chuyện vì ông biết Chu Bất Nghi là người tài, cũng như mối quan hệ thân tình với con trai Tào Xung.
Cuộc đời Chu Bất Nghi rẽ sang hướng khác khi Tào Xung lâm trọng bệnh, qua đời khi mới 12 tuổi vào năm 208. Cái ch.ết của Tào Xung là điều khiến Tào Tháo hết sức đau lòng. Bởi ông đã ngầm chọn Tào Xung là người tiếp nối cơ nghiệp.
Chu Bất Nghi đang là thiên tài trong mắt Tào Tháo nhưng nhanh chóng trở thành “cái gai trong mắt” sau khi Tào Xung mất. Thần đồng 17 tuổi từng dám cãi lệnh Tào Tháo hiển nhiên không còn chốn dung thân.
Chu Bất Nghi dù chưa lập nhiều công trạng nhưng có sử gia Trung Quốc còn so sánh thần đồng 17 tuổi với Tư Mã Ý.
Khi Tào Tháo quyết định lên kế hoạch trừ kh.ử Chu Bất Nghi, Tào Phi biết tin vội ngăn cản phụ vương. Bấy giờ, ông chỉ nói: “Kẻ này vốn không phải người mà con có thể khống chế”.
Tào Phi lúc đó mới hiểu ra ý đồ của Ngụy vương. Ông cũng nhận thức được mối ng.uy h.iểm tiềm tàng của một thiên tài nhưng không nghe lời như Chu Bất Nghi.
Năm 209, Tào Tháo phái thích khách á.m s.át Chu Bất Nghi, đánh dấu chấm hết cho nhân tài yểu mệnh thời Tam quốc.
Lý do Tào Tháo phải bí mật ra lệnh sáᴛ ʜạɪ Chu Bất Nghi là bởi kỳ nhân 17 tuổi chưa hề làm quan mà danh tiếng vang dội, khiến Tào Tháo không có lý do để “đường đường chính chính” tr.iệt hạ.
Dương Tu
Dương Tu và Tào Tháo
Dương Tu (175 – 219), tự Đức Tổ, là người Hoằng Nông, Hoa Âm (nay là Hoa Âm, Thiểm Tây), là người có tài, xuất thân cao môn sĩ tộc lại có tiếng học rộng hiểu sâu, ông từ vị Hiếu liêm dần dần làm đến chức Chủ bộ, là thủ hạ dưới trướng Tào Tháo khi ấy đang là Thừa tướng.
Quyền cao chức trọng, hằng ngày Tào Tháo bận nhiều việc, hầu hết các việc trong ngoài của phủ đều do Dương Tu nắm giữ. Có thể nói, Dương Tu khi ấy là một trong những nhân vật ảnh hưởng nhất triều đình.
Ông có mối giao hảo tốt với Tào Thực, con trai thứ tư của Tào Tháo và quyết định trở thành mưu sĩ theo phò cho Tào Thực trong cuộc chiến giành ngôi vị Thế tử giữa Tào Thực và Tào Phi.
Trong Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, nhờ tài năng xuất chúng của mình Dương Tu trở thành một nhân vật đầy quyền thế đồng thời nhận nhiều sự căm ghét của các nhân vật lớn lúc bấy giờ, trong đó có Tào Tháo. Tất cả đều xuất phát từ sự nhanh trí và giỏi luận chữ Hán của Dương Tu. Không rõ là vì cái tôi của mình hay vì không ưa Tào Tháo mà Dương Tu thường hay tạo á.c cảm với Tào Tháo bằng những việc nhỏ.
Một lần Tào Tháo sau khi đi thăm vườn cảnh của phủ mới được xây, lấy bút viết lên cổng chữ “hoạt”, Dương Tu trông thấy bèn sai thợ phá cái cổng để làm nhỏ hơn. Có người hỏi thì Dương Tu mới nói là làm theo lệnh Tháo, rồi chỉ ra chữ “hoạt” mà Tào Tháo viết nằm trong chữ “môn” thì thành ra chữ “khoát”, có thể hiểu ra là “rộng quá”, nên cho phá đi làm lại. Tào Tháo ngoài mặt hài lòng nhưng lại rất không vui vì bị Dương Tu đọc được suy nghĩ của mình.
Tương tự trong một lần ngoài biên ải có người gửi cho Tào Tháo một hộp bơ, Tào Tháo viết lên đó mấy chữ “Nhất hợp tô” (Một hộp bơ) rồi để ở bàn. Dương Tu thấy thế liền lấy ra đem chia cho mỗi người một miếng. Khi bị tra hỏi, Dương Tu nói chiết tự “Nhất hợp tô” là “Nhất nhân nhất khẩu tô” (Mỗi người một miếng bơ).
Một lần khác ở nhà Thái Diễm thấy Thái Ấp viết 8 chữ lên mặt sau bia mộ Tào Nga: “Hoàng quyên ấu phụ, ngoại tôn tê cữu”. Tất cả mọi người, kể cả Tào Tháo đều không hiểu, duy nhất Dương Tu chiết tự ra là: “Tuyệt diệu hảo từ” (Từ ngữ hay tuyệt diệu).
Đặc biệt có lần Tào Tháo muốn đánh giá tài năng hai con trai, ông lệnh cho hai con ra khỏi Nghiệp thành, một mặt lại bí mật lệnh cho lính giữ cổng thành không cho ra. Kết quả Tào Phi bị chặn lại không ra được, còn Tào Thực ɢɪếᴛ lính giữ cổng thành để ra. Tào Tháo cho rằng Tào Thực có tài năng hơn. Nhưng thực ra đây là kế Dương Tu bày cho Tào Thực.
Qua những câu chuyện trên có thể thấy phản ứng châm chọc của Dương Tu đối với Tào Tháo. Có lẽ, Tào Tháo cũng nhận ra rằng Dương Tu cũng giống cha mình, không bao giờ ủng hộ Tào Tháo lấn át Thiên tử, nhưng cách phản đối của Dương Tu thâm thúy hơn chứ không thẳng thừng như Dương Bưu.
Trong một lần Tào Tháo đem quân đi chinh ph.ạt nhà Thục. Quân Thục chống trả quyết liệt và cố thủ vững chắc. Thời gian trôi qua, không thay đổi được tình hình chiến trường đâm ra chán chường, có ý muốn rút nhưng lại ngại xấu hổ trước ba quân, quần thần.
Buổi tối, tướng Hạ Hầu Đôn vào trướng xin khẩu lệnh ban đêm cho doanh trại, Tào Tháo ngần ngừ một lúc rồi nói: “Kê lặc” (gân gà). Hạ Hầu Đôn thấy khẩu lệnh này lạ lùng quá bèn thắc mắc đem hỏi Dương Tu.
Dương Tu cười lớn rồi bảo Hạ Hầu Đôn chuẩn bị gói ghém đồ đạc, kẻo nội trong 3 ngày nữa Tào Tháo sẽ hạ lệnh rút quân. Dương Tu giải thích rằng khẩu lệnh “gân gà” nói lên tâm trạng của Tào Tháo, vừa muốn rút quân, vừa không muốn bỏ như gân gà, ăn thì không có thịt, bỏ đi thì thấy tiếc. Quả nhiên, Tào Tháo ra lệnh hồi kinh. Việc Dương Tu đoán được ý đến tai Tào Tháo, khiến Tào Tháo rất tức giận và muốn tìm cơ hội ɢɪếᴛ Dương Tu.
Năm Kiến An thứ 24 (219), mùa thu, Dương Tu cùng Tào Thực say ʀượᴜ đi qua Tư Mã môn, do say sưa mà hạ nh.ục bộ hạ của Tào Chương. Việc trình lên, Tào Tháo mượn cớ Dương Tu tự cao tự đại, để lộ quân cơ, ra lệnh x.ử t.ử Dương Tu.
Trong Tam quốc diễn nghĩa, cái ch.ết của Dương Tu lại nhanh hơn một chút. Sau khi Dương Tu giải được ý tứ “Kê lặc” của Tào Tháo, việc truyền đến tai Tào Tháo khiến Tào Tháo tức giận nên lấy cớ là Dương Tu phao tin làm l.oạn lòng quân, đem ra ch.ém đầu.
Tội danh làm rối l.oạn lòng quân chỉ là giọt nước tràn ly, thực tế cái ch.ết của Dương Tu là do ông cậy tài, khoe tài, luôn muốn thể hiện mình hơn người, giỏi giang.
Tuy nhiên có tài nhưng ông lại không dùng vào việc giúp thượng cấp giải quyết công việc quân sự, quân vụ chiến trường, quản lý bách tính, nội vụ… mà chuyên dùng để tỏ ra mình hơn người, hơn Tào Tháo, và bóc trần các mưu kế, ý tưởng của Tào Tháo. Khiến ông trở thành cái gai trong mắt của Tào Tháo và bị ᴛɪêᴜ ᴅɪệᴛ.