Nếu xét về danh tiếng và chiến công riêng hiển hách, Võ thánh Quan Vũ sẽ đứng vị trí cao nhất. Tuy vậy, nếu xếp cả về đức độ, tài thao lược, trí dũng song toàn thì ai mới là người đứng đầu?
Xuất phát từ cuốn sử Tam quốc chí của Trần Thọ dựa theo những cống hiến của các tướng lĩnh với nhà Thục Hán đã đặt 5 vị tướng ngang hàng và xếp vào cùng một quyển gọi là “Quan Trương Mã Hoàng Triệu truyện”, tác giả La Quán Trung đã hư cấu nên chức vị “Ngũ Hổ Tướng”.
Theo tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa nói rằng Lưu Bị sau khi lên ngôi vào năm 219 đã lấy hiệu là Hán Trung Vương, sắc phong 5 vị dũng tướng – gồm Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu, Hoàng Trung – là Ngũ Hổ Thượng Tướng.
Tuy nhiên, trong tiểu thuyết, cách đánh giá này có một số nhân vật không đồng tình, như Quan Vũ lại không thích Hoàng Trung ở ngang hàng với mình vì theo ông Trương Phi là em ông, Triệu Vân theo Lưu Bị đã lâu cũng như em, Mã Siêu là “dòng dõi thế gia” còn Hoàng Trung chỉ là một “tướng già”… Trên thực tế, Mã Siêu là người lai rợ Khương, cha Mã Đằng là tiều phu, ông bị đi đày, không phải dòng dõi thế gia. Hoàng Trung cũng không phải “già” vì không có ghi chép gì về năm sinh của ông.
Theo Sina, nếu xét về danh tiếng và chiến công riêng hiển hách, Võ thánh Quan Vũ sẽ đứng vị trí cao nhất. Tuy vậy, nếu xếp cả về đức độ, tài thao lược, trí dũng song toàn thì thứ tự các vị trí dưới đây có thể hiện đúng với thực lực của các võ tướng?
1. Triệu Vân – Tài đức vẹn toàn
Triệu Vân (sinh ? - mất năm 229), người huyện Chính Định Nam, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc ngày nay, tên tự là Tử Long. Thuở nhỏ theo Công Tôn Toản, sau về phò trợ cho Lưu Bị. Ông có ngoại hình hùng dũng, uy phong lẫm liệt, giỏi võ nghệ và có tài thao lược, được đánh giá là bậc hổ tướng trí dũng song toàn.
Tam Quốc diễn nghĩa có ghi rằng ông “cao tám thước, mắt rồng, mày rậm, má bầu, mặt rộng, sống mũi diều hâu, lưng sói, tay vượn, bụng beo, cưỡi Bạch Long mã, uy phong lẫm liệt”.
Ông nổi tiếng với tài dùng thương, mười dũng tướng của Tào Tháo không địch nổi một mình Triệu Vân. Với tài thương thuật của mình, Triệu Vân có thể dũng mãnh tả xung hữu đột, giành được chiến thắng trong vòng vây kẻ đ.ị.ch. Ông được Lưu Bị ngợi khen như là một vị võ tướng dũng khí có thừa.
Những chiến tích của Triệu Vân phải kể đến: phá trận Bát Môn kim Tỏa của Tào Nhân, hai lần cứu A Đẩu, một mình cưỡi Bạch Long mã phá vây hàng vạn quân Tào, ch.é.m gãy 2 lá cờ to, ɢɪếᴛ 50 danh tướng quân Tào, lấy được thanh g.ư.ơ.m báu Thanh Công, thanh g.ư.ơ.m báu mạ vàng của Tào Tháo, có thể ch.é.m gãy các loại b.i.nh khí. Ông cũng truy kích Tào Tháo ở trận Xích Bích, đánh Tây Xuyên, Hán Trung, đánh tộc người Man do Mạnh Hoạch chỉ huy, tham gia Bắc phạt do Gia Cát Lượng chỉ huy.
Sau khi Lưu Bị chiếm được Ích Châu, ông được phong làm Dực tướng quân, phò trợ Lưu Bị đánh Trung Hán. Kiến Hưng năm thứ 6 (tức năm 228), Triệu Vân dẫn quân hỗ trợ cho Gia Cát Lượng tiến đánh Quan Trung, tuy lúc này tuổi đã cao nhưng Triệu Vân vẫn hết sức dũng mãnh quyết chiến với quân địch, sau rút quân về được Hán Trung, năm sau thì mất.
Triệu Vân là hổ tướng có uy dũng, quả cảm trên chiến trường, nhưng có tình có nghĩa, chắc chắn, bình tĩnh, tận tụy, không nóng nảy xốc nổi như Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu. Trong chính sự, ông một lòng vì nước, có tư duy nhạy bén, suy nghĩ thấu đáo. Như khi Lưu Bị khởi quân đánh Tôn Quyền, để trả th.ù cho Quan Vũ, Triệu Vân đã đứng ra khuyên gián Lưu Bị “Quốc th.ù nên xem là trọng, tư th.ù nên xem là nhẹ”, nhưng Lưu Bị không nghe, kết quả quân Lưu Bị đại bại, Triệu Vân phải mang quân đến tiếp ứng rước về.
2. Quan Vũ – Tính cách ngạo mạn xoá nhoà chiến công
Quan Vũ (sinh ? – mất 220), tên tự Trường Sinh, sau đổi thành Vân Trường, quê ở Vận Thành, tỉnh Sơn Tây, miền bắc của Trung Quốc ngày nay. Ông cao chín thước (khoảng 2 m), mặt đỏ như gấc, mắt phượng mày tằm, râu dài hai thước, oai phong lẫm liệt, là vị dũng tướng tiếng tăm lừng lẫy cuối thời Đông Hán. Từ trẻ theo phò trợ Lưu Bị, một lòng trung thành, xả thân vì chúa, ông cũng là vị dũng tướng mà Lưu Bị hết lòng tin cậy, phong làm Tiền tướng quân.
Sau khi Quan Vũ mất, nhân dân tôn ông làm “Võ Thánh”, sánh ngang với Văn thánh Khổng Tử và được thờ cúng với tượng mặt đỏ, mày tằm hình chữ bát, mắt phượng sáng như sao, râu rồng rõ năm chòm, trán hùm thân lẫm liệt, tay cầm cây thanh long yểm nguyệt, cưỡi ngựa xích thố. Dân gian xem ông như một biểu tượng của tính hào hiệp, trượng nghĩa và trung thành, nhưng các nhà sử học cũng phê phán ông vì tính kiêu căng, ngạo mạn.
Dân gian coi Quan Vũ là bậc anh hùng cái thế, dũng cảm phi thường, đứng đầu toàn quân. Trong tam tuyệt của Tam Quốc Diễn Nghĩa, ông được xếp là “tuyệt nghĩa” (Tào Tháo là tuyệt gian, Gia Cát Lượng là tuyệt trí). Quan Vũ là bậc bề tôi trung thành, dù nhiều lần Tào Tháo hậu đãi chiêu mộ nhưng ông không từ bỏ Lưu Bị, theo Lưu Bị nhiều năm phải trải qua gian lao khó nhọc nhưng ông vẫn một lòng không thay đổi.
Với sức khỏe hơn người, Quan Vũ dùng thanh long đ.a.o 40 kg. Trong suốt cuộc đời chinh chiến, ông lập nhiều chiến công hiển hách, d.iệt nhiều tướng tài của đ.ị.ch như Trình Viễn Chí, Quản Hợi, Hoa Hùng, Tuân Chính, Bàng Đức.
Nhiều câu chuyện về Quan Vũ như ông ung dung chơi cờ trong khi Hoa Đà ở bên cạo xương trị đ.ộ.c (cạo xương trị thương), hay việc hiển linh sau khi ᴄʜếᴛ khiến kẻ ɢɪếᴛ ông là Lã Mông ᴄʜếᴛ bất tử vì quá sợ hãi, thủ cấp nổi giận khiến Tào Tháo đau đầu nặng đến mức qua đời đã đi vào điển tích truyền kỳ, đề cao uy linh và dũng khí can trường của Võ Thánh.
Bên cạnh khí chất vũ dũng phi phàm, Quan Vũ có nhược điểm vì tính kiêu ngạo, không chịu dưới người khác, như việc ông có ý so sánh bản thân Mã Siêu, để Gia Cát Lượng phải lựa ý ca ngợi ông hơn hẳn, còn Mã Siêu chỉ xếp cùng hạng với Trương Phi mà thôi. Hay khi Lưu Bị phong ông làm Tiền tướng quân, Hoàng Trung là Hậu tướng quân, ông không bằng lòng nên Phí Vĩ phải lựa lời phân tích lý lẽ, ông mới chịu nhận chỉ.
Sử gia Trần Thọ, tác giả sách “Tam Quốc chí”, bình luận về ông: “Quan Vũ sức địch vạn người, hổ thần một thời. Nhưng vũ cương và tự phụ, lấy sở đoản chuốc lấy thất bại, là lẽ thường vậy.”
3. Trương Phi – Sức địch muôn người nhưng nóng giận mất khôn
Trương Phi (sinh ? – mất năm 221), tên tự Dực Đức, người tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc hiện nay. Trương Phi giữ chức Hữu tướng quân, sau khi Lưu Bị xưng đế, được phong làm Tây Hương Hầu. Ông sinh trưởng trong một gia đình nghèo, làm nghề bán ʀượᴜ, thân hình to lớn, dung mạo oai phong, được học hành cả võ nghệ lẫn sách vở.
La Quán Trung miêu tả Trương Phi “cao tám thước, đầu báo, mắt tròn, râu hùm, hàm én”, tính cách vô cùng khẳng khái, bộc trực và rất nóng nảy. Tuy nóng tính và dữ dằn, nhưng dân chúng lại rất yêu quý hình tượng Trương Phi, vì ông đại diện cho vị võ tướng trượng nghĩa, ᴄăᴍ ɢʜéᴛ ᴄáɪ áᴄ, và hết lòng hết sức vì anh em.
Trương Phi là người sát cánh cùng Lưu Bị từ thuở hàn vi, ông đã đóng góp rất nhiều cho sự ra đời của nước Thục. Trương Phi nổi tiếng với sức khỏe địch muôn người cùng với sự dũng cảm coi thường cái ᴄʜếᴛ.
Ông thật sự là nỗi khiếp đảm của quân th.ù, trong trận Tương Dương, Trường Bản, tuy chỉ còn vài chục quân sĩ, còn quân Tào đông đến mấy trăm vạn, nhưng sự dũng mãnh của ông đã khiến Tào Tháo hoảng sợ phải lui quân. Trong trận ấy, Hạ Hầu Kiệt, viên quan theo hầu Tào Tháo đã hoảng sợ đến mức vỡ mật mà ᴄʜếᴛ. Ông đã cùng đơn đấu với Lã Bố đến hơn 50 hiệp mà bất phân thắng bại.
Những chiến công của Trương Phi có thể kể tới: dẹp ɢɪặᴄ Khăn Vàng, chặn quân Tào Tháo ở trận Trường Bản, truy kích Tào Tháo ở trận Xích Bích, đánh Tây Xuyên, thu phục Nghiêm Nhan, giao tranh với Trương Cáp ở Ba Tây, đánh nhau với Mã Siêu…
Trương Phi tuy là bậc anh hùng có mưu có dũng, nhưng tính tình quá nóng nảy, dễ nổi giận lôi đình, khiến không ít lần bị rơi vào bẫy của kẻ đ.ị.ch, cuối đời còn mang họa s.á.t thân.
4. Mã Siêu – Hữu dũng, võ biền
Mã Siêu (176-222), tên tự Mạnh Khởi, quê ở Hưng Bình, huyện Thiểm Tây, Trung Quốc hiện nay, là danh tướng của Thục Hán thời Tam Quốc. Mã Siêu được Lưu Bị hoàn toàn tin cẩn giao nhiều trọng trách quan trọng đồng thời tấn phong cho ông làm Tả tướng quân.
Mã Siêu có tài bắn tên và có lối đánh thần tốc. Trong mỗi trận giao chiến, ông thường xung phong đi nhưng cũng là người đích thân đoạn hậu, luôn rút lui sau cùng để bảo vệ cho quân lính an toàn.
Ngoài sự anh dũng, thiện chiến trong chiến đấu, trong Tam Quốc diễn nghĩa, ông được biết đến với biệt danh “Cẩm Mã Siêu” nghĩa là Mã Siêu tuyệt đẹp, hay tuyệt mỹ.
La Quán Trung mô tả và ước lệ hóa Mã Siêu trở thành một vẻ đẹp gần như tuyệt mỹ của một trang nam tử trẻ tuổi. “Mã Siêu là một viên tướng trẻ tuổi, mặt đẹp như ngọc, mắt sáng như sao, mình hổ tay vượn, bụng beo lưng sói, tay cầm một ngọn giáo dài, mình cưỡi con ngựa đẹp”.
Theo đó, ông vừa có sự kết hợp gần như là hoàn hảo của dung mạo, thể hình và phong độ, vừa có cái đẹp của một công tử dòng dõi thế gia lại vừa có cái đẹp mạnh mẽ, kiêu dũng của những chiến binh, dũng sĩ của các bộ tộc miền quan ngoại.
Mã Siêu được miêu tả là một hổ tướng sức địch muôn người, được Tào Tháo và Dương Phụ ví như Lã Bố tái thế, Khổng Minh so sánh với Kình Bố, Bành Việt. Sức mạnh và sự uy dũng của ông được thể hiện trong những trận chiến mà ông tham gia, đặc biệt là hai trận đánh tay đôi với Hứa Chử, viên hổ tướng mạnh nhất của quân Ngụy và Trương Phi, một trong Ngũ Hổ tướng của Nhà Thục, là hai trong những trận đấu tướng hay nhất, hấp dẫn và kịch tính nhất trong Tam quốc.
Tuy vậy, qua tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa Mã Siêu về cơ bản được xếp vào hạng hữu dũng, võ biền, hay nóng giận, là một võ tướng chỉ đơn thuần dựa vào sức mạnh và uy dũng giống như Lã Bố.
Chính vì không đủ trí dũng song toàn để tham gia vào cuộc tranh hùng đầy khốc liệt trong thời kỳ này, nên cuộc đời binh nghiệp của Mã Siêu luôn gặp nhiều thất bại, liên tục bị mắc mẹo, bị bội phản, chiêu dụ. Tuy được xếp hạng hổ tướng, được Lưu Bị tin dùng, nhưng cuộc đời riêng của ông gặp nhiều đau khổ, không báo được th.ù cha, cả gia tộc hơn 200 người đều bị Táo Tháo h.ạ.i ᴄʜếᴛ.
5. Hoàng Trung – Bất lợi tuổi tác
Hoàng Trung (sinh ? – mất năm 220), tên tự Hán Thăng, người tỉnh Nam Dương, Hà Nam, Trung Quốc hiện nay. Ông là danh tướng cao tuổi nhất trong ngũ hổ tướng. Ông vốn giữ chức Trung Lương tướng quân, là thuộc hạ của Lưu Biểu, sau đầu quân cho Lưu Bị và giúp Lưu Bị đánh Lưu Chương, chiếm Ích Châu.
Năm 219, trong trận chiến với quân Tào ở núi Định Quân. Lưu Bị thống lĩnh quân Thục giao chiến với danh tướng của Tào là Hạ Hầu Uyên. Binh lính phía Tào đều hết sức thiện chiến, tinh nhuệ, phía bên này, lão tướng Hoàng Trung tiên phong dẫn quân, đánh trống gõ chiêng, binh sĩ đồng lòng hô vang, khí phách lẫm liệt.
Trận này Hoàng Trung lập công lớn, ch.é.m ᴄʜếᴛ Hạ Hầu Uyên và được phong làm Chinh Tây tướng quân. Sau khi Lưu Bị xưng Hán Trung Vương, đã phong ông làm Hậu tướng quân, và ban tước Quan Nội Hầu.
Hoàng Trung là vị hổ tướng dũng mãnh, khí chất dẫn đầu tam quân, đặc biệt ông có tài bắn cung thiện nghệ, thành ngữ “Bách phát bách trúng” trong tiếng Hoa cũng bắt nguồn từ tài bắn tên của ông. Tuy nhiên cuối đời, ông ᴄʜếᴛ vì trúng tên của quân đ.ị.ch.
Sau khi Quan Vũ bị Đông Ngô ch.é.m thủ cấp, để b.á.o t.h.ù cho nhị đệ, Lưu Bị dẫn quân thảo phạt Đông Ngô. Khi giao chiến, Quan Hưng, Trương Bào liên tục tr.ả.m tướng ɢɪếᴛ địch quân, Lưu Bị hết mực tán thưởng thiếu niên tuổi trẻ tài cao, Hoàng Trung tự thấy mình là bậc lão tướng, có phần không phục, bèn đơn thương độc mã khiêu chiến.
Khi giao tranh, thấy tướng Đông Ngô là Phan Chương tay cầm thanh long đ.a.o yểm nguyệt của Quan Vũ, Hoàng Trung nóng vội muốn b.á.o t.h.ù, nên đã khinh suất trúng mai phục của quân địch, và bị Mã Trung bắn tên trúng vai. Năm đó Hoàng Trung tuổi tác đã cao lại cộng thêm vết thương mất nhiều m.á.u, không lâu sau ông qua đời.