Cũng giống như Thục Hán, Tào Tháo cũng xây dựng cho mình đội hình thiện chiến với 6 đại mãnh tướng luôn sát cánh cùng ông để đưa nhà Ngụy trở thành thế lực lớn nhất Tam Quốc lúc bấy giờ.
Trong ba nước Ngụy Thục Ngô, Tào Ngụy là nước mạnh nhất, chiếm được nhiều đất nhất (hơn 9 châu trong tổng số 13 châu của nhà Hán), dân số nhiều nhất, và đương nhiên có lực lượng quân sự hùng mạnh nhất. Nhưng để có được điều đó, quân đội Tào Ngụy cũng phải trải qua không ít khó khăn.
Cũng giống như nhà Thục Hán có Ngũ hổ tướng sát cánh cùng Lưu Bị thì Tào Tháo hùng mạnh là vậy lại thêm tính cách quý trọng nhân tài nên hiển nhiên Tào Nguỵ cũng có cho mình một đội quân hùng hậu. Họ đã trải qua hàng trăm trận chiến, lập được vô số công lao, góp phần đưa nhà Ngụy trở thành thế lực lớn nhất Tam Quốc lúc bấy giờ.
Đó là những nhân vật “m.á.u mặt” nào trong hàng ngũ Tào Nguỵ?
Từ Hoảng
Từ Hoảng tự Công Minh, người Dương quận. Ban đầu ông là chỉ huy kỵ binh của đội quân Dương Phụng. Sau khi Dương Phụng bị đại quân Tào Tháo đánh bại, Từ Hoảng mới đi theo Tào Tháo và trải qua rất nhiều trận đánh lớn như Quan Độ, Xích Bích, Hán Trung, Quan Trung và lập được rất nhiều đại công. Đặc biệt là lần Từ Hoảng đánh bại Quan Vũ trong trận chiến Tương Phàn, giúp Tào Tháo tránh được nguy cơ phải dời bỏ kinh đô.
Khi Từ Hoảng dẫn quân về trại, đích thân Tào Tháo ra ngoài thành để đón tiếp. Thấy quân của Từ Hoảng răm rắp nghiêm chỉnh, Tào Tháo khen rằng: “Từ tướng quân thật có phong cách như Chu Á Phu”.
Sau khi Tào Phi xưng đế, Từ Hoảng được làm Hữu tướng quân. Công Nguyên 227, Từ Hoảng bị bệnh rồi qua đời, được phong gọi là Tráng Hầu.
Trương Liêu
Trương Liêu tự Văn Viễn là người Mã Ấp, Nhạn Môn. Ông từng làm việc cho Đinh Nguyên, Đổng Trác và Lữ Bố. Sau trận chiến Hạ Bì mới quy thuận Tào Tháo, trở thành danh tướng trứ danh, chiến công lẫy lừng.
Đặc biệt là trong trận chiến Hợp Phỉ năm Kiến An thứ 20, Trương Liêu chỉ với 800 tướng sĩ, đã đánh bại 10 vạn đại quân của Tôn Quyền, trấn động vùng Giang Đông, Tôn Quyền chút nữa bị b.ắ.t sống. Người Giang Đông sau sự kiện đó đều khiếp vía, “trẻ con nghe tên Trương Liêu thì không dám khóc” đã trở thành một điển tích của nhân gian.
Trương Cáp
Vào cuối thời Đông Hán, Trương Cáp tham gia vào khởi nghĩa Khăn Vàng, sau quy phục Ký Châu mục Hàn Phức, làm Tư Mã quân. Năm 191, Hàn Phức bị Viên Thiệu đánh bại, Trương Cáp dẫn binh đầu hàng quy thuận Viên Thiệu. Trương Liêu sau đó công phá Công Tôn Toản, lập được chiến công và thăng cấp lên làm Ninh Quốc Trung lang tướng.
Trong trận chiến Quan Độ, Trương Cáp nhiều lần bày mưu và khuyên Viên Thiệu nhưng ông ta không nghe lời. Trận Ô Sào đại bại, Trương Cáp bị Quách Đồ gièm pha. Viên Thiệu vốn thiếu quyết đoán tin lời Quách Đồ có ý hại Trương Cáp, dẫn đến việc Trương Cáp chạy sang đầu quân cho Tào Tháo.
Từ đó về sau Trương Cáp cùng Tào Tháo công Ô Hoàn, phá Mã Siêu, giáng Trương Lỗ, lập công liên tục. Đến khi Tào Phi xưng đế, lấy Trương Cáp làm Tả Tướng Quân, phong Cáp làm Mạo hầu, nhận lệnh cùng Tào Chân công đánh rợ Hồ, An Định, sau còn cùng Hạ Hầu Thượng vây đánh Giang Lăng.
Đặc biệt là Công Nguyên 228, Trương Cáp cùng Tào Chân chống đỡ Gia Cát Lượng ở phía Tây, đánh bại quân Thục ở Nhai Đình, buộc địch phải rời khỏi Hán Trung. Đến năm Công Nguyên 231, Ông dẫn quân đuổi đánh quân Thục thì bị trúng tên t.ử trận. Trương Cáp là một đại tướng khiến Lưu Bị và Gia Cát Lượng phải kiêng sợ.
Tào Nhân
Tào Nhân tự Tử Hiếu, là em họ của Tào Tháo. Sau thất bại ở trận chiến Xích Bích, Tào Nhân trấn thủ ở Giang Lăng chống lại Chu Du hơn một năm.
Năm 211, Tào Nhân tham gia chiến dịch trấn áp các thế lực cát cứ Tây Lương của Mã Siêu và Hàn Toại. Trong trận Đồng Quan ông đã chỉ huy quân sĩ phòng thủ ải Đồng Quan trước các cuộc tấn công của Tây Lương, tạo điều kiện cho thắng lợi của quân Tào.
Trong trận chiến Tương Phàn, Tào Nhân chặn đứng các cuộc tấn công của Quan Vũ, cùng với Từ Hoảng giải vây khiến Quan Vũ phải rút lui. Sau khi nhà Ngụy lập quốc, Tào Nhân được phong làm Xa Kị tướng quân, sau đổi thành Trần Hầu quản lý quân sự Kinh Châu, Dương Châu và Ích Châu. Sau này ngày càng được Tào Phi trọng dụng phong làm Đại tư mã. Năm 223 Tào Nhân qua đời ở tuổi 55, được truy phong là Trung Hầu.
Hứa Chử
Hứa Chử tự là Trọng Khang, được miêu tả là thân cao tám thước, eo rộng mười vòng gang. Từ sau khi Điển Vi tử trận, ông chủ yếu làm hộ vệ thân cận của Tào Tháo. Trong trận chiến Quan Độ, khi phát hiện Từ Tha có âm mưu hành thích Tào Tháo, Hứa Chứ ra tay ɢɪếᴛ sạch Từ Tha cùng những thích khách.
Trong trận Vị Thủy, Hứa Chử mang trọng giáp mũ sắt, che chở cho Tào Tháo khỏi mưa tên, giúp Tào Tháo sang sông an toàn. Lúc Tào Tháo qua đời, Hứa Chử khóc đến thổ huyết. Sau đó Hứa Chử theo phục vụ con trai Tào Tháo là Tào Phi. Ông được phong là Vạn Tuế đình hầu. Đến thời Ngụy Minh Đế Tào Tuấn, ông được phong là Mâu Hương hầu. Không lâu sau thì Hứa Chử bệnh mất, được phong là Tráng hầu.
Điển Vi
Điển Vi là người Kỷ Ngô quận Trấn Lưu. Đương thời có câu “Nhất Lữ, nhị Triệu, tam Điển Vi…”, do đó ông được xem là đệ nhất mãnh tướng của Tào Tháo thời cuối Đông Hán.
Điển Vi có tướng mạo kiên hùng, sức khỏe hơn người. Ban đầu ông là người Trương Mạo sau mới đi theo Tào Tháo. Trong lúc Tào Tháo chinh phạt Lữ Bố bị bao vây tam hướng, chính sự trí lực và dũng cảm của Điển Vi đã giải vây giúp Tào Tháo, lập được đại công, được Tào Tháo phong làm Đô Úy, hộ vệ bên cạnh.
Kiến An năm thứ hai (Công Nguyên 197), Trương Tú ph.ả.n b.ộ.i Tào Tháo, Điển Vi một mình chống lại phản quân bảo vệ Chủ công, ɢɪếᴛ ᴄʜếᴛ rất nhiều kẻ đ.ị.ch, nhưng cuối cùng vì kẻ đ.ị.ch vây hãm quá đông mà t.ử trận.
Mặc dù lúc đó Tào Tháo mất cả con trưởng và cháu nội nhưng chỉ khóc than rằng:”Ta mất một con trưởng, một cháu yêu, cũng không quá đau xót, chỉ tiếc thương Ðiển Vi mà thôi”.
Thậm chí một năm sau khi Tào Thào dẫn binh đi qua cố địa vẫn không cầm được nước mắt mà khóc lớn, lệnh binh sĩ dừng quân, lập tế v.o.ng h.ồ.n Điển Vi. Nếu Điển Vi không ᴄʜếᴛ quá sớm, chắc chắn sử sách sẽ có thêm nhiều thành tựu của ông hơn.