Dưới trướng của Lưu Bị, Pháp Chính và Gia Cát Lượng đều là những vị quân sư được Lưu Bị vô cùng tin tưởng và trọng dụng. Tuy nhiên, nếu Pháp Chính không ra đi quá sớm thì cục diện nhà Hán sẽ thay đổi.

Pháp Chính lớn hơn Gia Cát Lượng 4 tuổi, cả hai đều là cánh tay đắc lực với Lưu Bị (trong “Tiên Chủ truyền” nói: Gia Cát Lượng là cánh tay đắc lực, Pháp Chính là quân sư đắc lực.), mặc dù hai người có tính cách và sở thích khác nhau, nhưng cả hai đều luôn đặt đại nghiệp quốc gia làm đầu.

Gia Cát Lượng đảm nhận nhiệm vụ ở hậu phương, chăm lo binh lực, lương thảo; còn Pháp Chính thì theo quân đi chinh ph.ạt, bày mưu tính kế. Cả hai luôn phối hợp nhịp nhàng, lấy ngắn bọc dài.

Về sau, khi Lưu Bị quyết tâm Đông chinh, thảo ph.ạt Tôn Quyền để 𝘣𝘢́𝘰 𝘵𝘩.𝘶̀ cho Quan Vũ, bá quan văn võ hết lời can ngăn nhưng ông đều không nghe theo.

Năm Chương Vũ thứ hai (tức năm 222), hai nước Thục, Ngô vì cái 𝘤𝘩.𝘦̂́.𝘵 của Quan Vũ đã phát động chiến tranh tại Di Lăng, quân Thục đại bại, rút về Bạch Đế thành. Gia Cát Lượng lúc đó đã than rằng: “Nếu Pháp Hiếu Trực còn sống, đã có thể ngăn Chủ thượng dẫn binh; kể cả nếu có ngăn không được thì có ông theo cùng, nhất định có thể trở về sau thất bại”.

Từ đó có thể thấy được rằng, trong quan điểm của Gia Cát Lượng, ông tự thấy địa vị của bản thân trong lòng Lưu Bị không thể so được với Pháp Chính. Hay nói cách khác, nếu khi ấy Pháp Chính chưa qua đời, thì ông có thể khuyên can được Lưu Bị trước khi trận Di Lăng xảy ra, từ đó tránh được kết quả bại trận tại Di Lăng của quân Thục.

Hãy cùng tìm hiểu về Pháp Chính – vị kỳ tài mà mà ngay cả Gia Cát Lượng cũng phải tự nhận là không bằng.

Pháp Chính xuất thân từ gia đình danh sĩ, là cháu của danh sĩ Pháp Chân

Đầu năm Kiến An, vì khắp nơi mất mùa, đời sống đói khổ, khó khăn, Pháp Chính cùng người bạn đồng hương là Mạnh Đạt phải đến nước Thục nương nhờ Lưu Chương.

Vào cuối thời Đông Hán, Lưu Chương và Lưu Biểu đều là hậu duệ vương thất nhà Hán, dưới trướng có vô số nhân tài. Nhưng, bởi vì cả hai vị Chư hầu đều không có tài nhìn người và dùng người, lại không có ý tr.anh đ.oạt thiên hạ, cho nên, cả hai đã không chỉ lãng phí nhiều người tài mà về sau còn rơi vào kết cục 𝘥.𝘪.𝘦̣̂𝘵 𝘷𝘰𝘯𝘨.

Lưu Chương vốn không phải người giỏi dùng người, phải rất lâu sau Pháp Chính mới được phong chức Huyện lệnh Tân Đô, về sau lại nhận lệnh trở thành Quân nghị hiệu úy. Pháp Chính có tài nhưng không gặp thời, lại bị người trong châu ấp ghẻ lạnh, khiến ông vô cùng buồn khổ.

Quan Biệt giá Ích Châu là Trương Tùng là bạn tốt với Pháp Chính, cũng cho rằng Lưu Chương không phải người có thể làm nên nghiệp lớn, thường than thở chính mình không gặp thời. Đây cũng là nguyên nhân chính khiến sau này Pháp Chính và Trương Tùng đầu quân cho Lưu Bị.

Năm Kiến An thứ 13 (tức năm 208), Trương Tùng đi sứ đến gặp Tào Tháo, lúc trở về ông khuyên Lưu Chương cắt đứt quan hệ với Tào Tháo, kết bằng hữu với Lưu Bị. Không lâu sau, Tào Tháo bại trận Xích Bích, thế lực của Lưu Bị cũng dần lớn mạnh. Lưu Chương hỏi nên để ai đi sứ gặp Lưu Bị, Trương Tùng đã tiến cử Pháp Chính. Ban đầu, Pháp Chính còn từ chối, nhưng về sau cũng đành nhận lệnh.

Nhờ có sự tiến cử của Trương Tùng, Lưu Bị gặp được Pháp Chính, “dùng ân đức để thu nạp, đối đãi niềm nở, ân cần”.

Đệ nhất mưu sĩ Thục Hán, đến Gia Cát Lượng cũng phải tự nhận không bằng, Tào Tháo e ngại…

Pháp Chính nhận thấy Lưu Bị là người có chí lớn lại mưu lược, là vị minh chủ đáng để theo phò tá, sau khi trở về Ích Châu, âm thầm mưu tính cùng Trương Tùng, quyết định ngầm tôn Lưu Bị làm Chủ thượng. Chính bởi vì có được nội ứng của Pháp Chính, Trương Tùng đã giúp Lưu Bị thành công chiếm được Ích Châu, đánh đổ Châu mục Ích Châu là Lưu Chương.

Về với Lưu Bị

Sau khi Lưu Bị chiếm cứ được Ích Châu, Lưu Bị ban thưởng cho bốn người Gia Cát Lượng, Pháp Chính, Trương Phi và Quan Vũ 500 cân vàng, hàng nghìn cân bạc, 5 ngàn vạn tiền cùng gấm vóc nghìn thước, trở thành các vị tướng lĩnh được ban thưởng hậu nhất.

Pháp Chính được phong làm Thái thú quận Thục và Tướng quân Dương Vũ. Về việc này, theo quan điểm của Sohu (Trung Quốc), trong bốn người được ban thưởng, Pháp Chính là người gắn bó với Lưu Bị ngắn nhất, nhưng lại được ban thưởng tương đương với Gia Cát Lượng, Trương Phi và Quan Vũ, quả là khiến cho người khác phải ngạc nhiên.

Hay nói cách khác, trong quá trình Lưu Bị đánh chiếm Ích Châu, Pháp Chính rõ ràng đã thể hiện được tầm quan trọng của bản thân, giành được phần thưởng cao nhất của Lưu Bị. Dĩ nhiên, cũng có một số nhà lịch sử gia cho rằng, đây có lẽ cũng là do sự tương đồng trong tính cách giữa Lưu Bị và Pháp Chính, hay còn gọi là tâm đầu ý hợp, tri kỷ gặp nhau.

Lưu Bị lệnh cho 5 người là Pháp Chính cùng quân sư Gia Cát Lượng, Chiêu Văn tướng quân Y Tịch, Tả tướng quân Tây Tào duyện Lưu Ba, Hưng Nghiệp tướng quân Lí Nghiêm cùng nhau soạn thảo bộ luật pháp nhà Thục Hán có tên là “Thục Khoa”.

Bấy giờ, về đối ngoại Pháp Chính nắm quyền ở quận Thục ở Ích Châu (Thục quận trực thuộc huyện Thành Đô), về đối nội ông thường xuyên giúp Lưu Bị bày mưu tính kế, là mưu sĩ chính của Lưu Bị. Điều này cho thấy địa vị của Pháp Chính dưới trướng Lưu Bị trên thực tế được xem như là “người đến sau nhưng lại đứng trước”.

Theo các ghi chép về lịch sử trong “Tam Quốc chí”, Pháp Chính là người 𝘢̂𝘯 𝘰.𝘢́.𝘯 phân minh, có 𝘰.𝘢́𝘯 𝘩.𝘢̣̂𝘯 𝘵𝘢̂́𝘵 𝘣.𝘢́𝘰 𝘵𝘩.𝘶̀, sau khi nắm trong tay quyền lực, những người từng có ơn dù nhỏ với ông trước đây cũng được ông đền đáp, còn những người có mâu thuẫn dù bé cũng bị ông 𝘣.𝘢́𝘰 𝘵𝘩.𝘶̀.

Có người 𝘵.𝘰̂́ 𝘤𝘢́𝘰 với Gia Cát Lượng, hi vọng Gia Cát Lượng có thể vạch t.ội Pháp Chính với Lưu Bị, không để cho Pháp Chính tác oai tác quái.

Song, Gia Cát Lượng biết rõ Pháp Chính là vị quan đắc lực được Chủ thượng tin tưởng, có công lao to lớn, cho nên không làm khó ông. Việc này, cũng là minh chứng rõ ràng rằng Pháp Chính giành được sự tin tưởng cùng trọng dụng hết mực của Lưu Bị.

Qua đời sớm – tổn thất lớn cho Thục Hán

Vào năm Kiến An thứ 25 (tức năm 220), Pháp Chính qua đời, hưởng thọ 45 tuổi. Sự ra đi của Pháp Chính khiến Lưu Bị vô cùng tiếc thương, khóc thương nhiều ngày liền. Về sau, Lưu Bị truy phong ông làm Dực Hầu, phong chức Quan Nội Hầu. Địa vị của Pháp Chính trong lòng Lưu Bị, ngoài việc Gia Cát Lượng cho rằng Pháp Chính có thể can ngăn Lưu Bị không ph.ạt Ngô còn phải kể đến hai việc ông đã làm sau.

Việc thứ nhất là vào năm Kiến An thứ 19 (tức năm 214), khi Lưu Bị dẫn quân bao vây Thành Đô, Thái thú Thục quận là Hứa Tĩnh muốn mở cổng thành đầu hàng Lưu Bị nhưng kế hoạch bị lộ.

Hình ảnh nhân vật Hứa Tĩnh trên phim.

Trong thời khác 𝘯𝘨.𝘶𝘺 𝘯𝘢𝘯, vì không muốn 𝘨.𝘪.𝘦̂́.𝘵 người của mình nên Lưu Chương đã tha cho Hứa Tĩnh. Sau khi Lưu Chương đầu hàng Lưu Bị, Bị vì chuyện này mà không muốn trọng dụng Hứa Tĩnh. Nhưng, Pháp Chính lại khuyên Lưu Bị rằng:

“Hứa Tĩnh tuy là kẻ hữu danh vô thực, nhưng nay Chúa công vừa mới dựng nghiệp lớn, danh tiếng Hứa Tĩnh lại vang danh bốn phương, nếu như người như vậy Chúa công còn không trọng dụng, kẻ hiền tài trong thiên hạ sẽ cho rằng Chúa công đang bạc đãi hiền thần.” Dưới sự khuyên ngăn của Pháp Chính và Gia Cát Lượng, Lưu Bị về sau cũng đối đãi rất hậu với vị mưu sĩ Hứa Tĩnh này.

Việc thứ hai là, có một lần Lưu Bị giao ch.iến với Tào quân, tình thế bất lợi, vốn nên lập tức rút quân, nhưng Lưu Bị lại 𝘵.𝘶̛́𝘤 𝘨.𝘪𝘢̣̂𝘯 kiên quyết không chịu lui quân, không ai dám bước ra ngăn cản. Khi ấy, dưới làn mưa t.ê.n, Lưu Bị có nguy cơ bị thương, nếu bị thương sẽ ảnh hưởng đến diến biến trận Hán Trung.

Khi ấy, Pháp Chính đã đứng ra ngăn trước mặt Lưu Bị, Lưu Bị vội vàng hét lớn: “Hiếu Trực cẩn thận t.ên b.ắ.n”, Pháp Chính liền đáp: “Ngay cả Chúa công còn dám xông pha dưới làn mưa t.ên bão đá, chẳng lẽ thần lại không thể?”. Nghe vậy, Lưu Bị chỉ đành chấp nhận nói: “Vậy ta cùng khanh rút lui.” Sau đó, Lưu Bị liền hạ lệnh lui binh.

Có thể thấy, địa vị của Pháp Chính trong lòng Lưu Bị quả thực còn cao hơn cả Gia Cát Lượng, điều này khiến Gia Cát Lượng tự cảm thán bản thân không thể bằng được với Pháp Chính. Nếu như, Pháp Chính không qua đời quá sớm, không chỉ nhà Thục Hán mà thậm chí cả lịch sử thời kỳ Tam quốc có lẽ đã vì thế mà thay đổi nhiều.
(Theo Khánh An/PL&Bạn đọc)